Việc sử dụng artemia vô khuẩn (Artemia spp.) cho các nghiên cứu về độc tính sinh thái và tương tác giữa vi khuẩn và vật chủ là phổ biến. Tuy nhiên, các yêu cầu về nuôi cấy vô khuẩn và hiệu ứng nền của môi trường nước biển có thể là một trở ngại. Vì vậy, chúng tôi đã nghiên cứu khả năng nở của trứng Artemia trên môi trường Tryptic Soy Agar (TSA) vô trùng mới. Ở đây, lần đầu tiên chúng tôi chứng minh rằng trứng Artemia có thể nở trên môi trường rắn mà không cần chất lỏng, điều này mang lại những lợi ích thực tế. Chúng tôi đã tối ưu hóa các điều kiện nuôi cấy về nhiệt độ và độ mặn, đồng thời đánh giá hệ thống nuôi cấy này để sàng lọc độc tính của các hạt nano bạc (AgNP) trên nhiều đặc điểm sinh học. Kết quả cho thấy tỷ lệ nở phôi tối đa (90%) xảy ra ở 28°C và không bổ sung natri clorua. Khi trứng bào nang được nuôi cấy trên môi trường rắn TSA, Artemia bị tác động tiêu cực bởi AgNP ở mức 30–50 mgL−1 về tỷ lệ nở phôi (47–51%), tỷ lệ chuyển đổi từ giai đoạn bung dù sang giai đoạn ấu trùng (54–57%) và giảm sự tăng trưởng ở giai đoạn ấu trùng (60–85% chiều dài cơ thể bình thường). Ở mức 50–100 mgL−1 AgNP và cao hơn, bằng chứng về tổn thương đối với việc lưu trữ lysosomal đã được ghi lại. Ở mức 500 mgL−1 AgNP, sự phát triển của mắt bị ức chế và hành vi vận động bị cản trở. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy phương pháp ấp trứng mới này có ứng dụng trong nghiên cứu độc tố sinh thái và cung cấp một công cụ hiệu quả để kiểm soát nhu cầu vô khuẩn nhằm sản xuất artemia vô khuẩn.
Lê Việt Dũng – NCM Bệnh Thủy sản