Sá sùng từ lâu đã được khai thác làm thực phẩm và dược liệu có giá trị cao. Giá sá sùng khô dao động từ 2 đến 4 triệu đồng mỗi kg, thị trường tiêu thụ mạnh cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, việc khai thác tự nhiên quá mức đã khiến nguồn lợi loài này ngày càng suy giảm. Trong những năm gần đây, nhiều địa phương ven biển đã triển khai mô hình nuôi sá sùng thương phẩm trong ao đất và bãi triều, bước đầu mang lại kết quả tích cực và mở ra hướng đi mới cho người dân.
_1760699927.jpg)
Điều kiện môi trường là yếu tố quan trọng quyết định thành công của vụ nuôi. Sá sùng phát triển tốt trong các chỉ tiêu sau:
– Nhiệt độ nước: 26–29°C
– Độ mặn: 28–32‰
– pH: 7,5–8,5
– Oxy hòa tan (DO): 3,5–6,5 mg/L
– NH₃-N: < 0,6 mg/L
– Đáy ao/bãi: cát pha bùn, tơi xốp, lớp dày ≥ 25 cm, thoát nước tốt
Sá sùng thường được nuôi trong ao đất và bãi triều.
Trước khi thả giống, ao nuôi có diện tích từ 500 đến 2.000 m² và độ sâu tối thiểu 1,2 m cần được tháo cạn nước, phơi đáy và cày xới lớp cát để làm tơi nền. Việc bón vôi giúp điều chỉnh pH về mức 7,5–8,5. Để tạo nguồn thức ăn nền, có thể bón phân hữu cơ hoai mục với liều lượng khoảng 100 kg/1.000 m² hoặc bổ sung chế phẩm sinh học nhằm tăng lượng mùn hữu cơ và kích thích sự phát triển của vi sinh vật và vi tảo. Khi cấp nước vào ao, phải sử dụng lưới lọc để ngăn cá tạp, cua và các sinh vật gây hại.
Nguồn giống hiện chủ yếu vẫn dựa vào khai thác tự nhiên, song một số cơ sở đã nghiên cứu và bước đầu thành công trong việc sản xuất giống nhân tạo. Con giống đạt tiêu chuẩn có chiều dài từ 3–5 cm, khỏe mạnh, đồng đều kích cỡ và không bị dập nát. Mật độ thả thích hợp là 50–70 con/m². Trước khi thả, bà con cần đào rãnh nông sâu khoảng 3–5 cm, đặt giống vào rồi lấp nhẹ cát để hạn chế thất thoát. Thời điểm thả giống nên vào sáng sớm hoặc chiều mát để giảm sốc nhiệt. Trong quá trình vận chuyển, giống được giữ trong thùng xốp lót cát ẩm, hạn chế va chạm để tránh dập nát.
Trong quá trình nuôi, sá sùng chủ yếu sử dụng mùn bã hữu cơ, vi sinh vật và phiêu sinh trong nền cát làm thức ăn, vì vậy trong mô hình nuôi thương phẩm chưa cần cho ăn bổ sung. Một số thử nghiệm có bổ sung thức ăn từ cá tạp xay trộn với cám gạo, bột ngô hoặc bột đậu nành cho thấy khả năng tăng trưởng nhanh hơn, nhưng kết quả này chưa được quy trình kỹ thuật chính thức xác nhận. Nếu áp dụng, người nuôi cần cân nhắc và thử nghiệm thận trọng. Việc quản lý ao nuôi tập trung vào duy trì chất lượng nước ổn định, giữ mực nước hợp lý, tránh hiện tượng ngập úng hoặc xói lở nền đáy. Định kỳ loại bỏ rong rêu, bùn bẩn dày và các loài địch hại như cua và cá ăn thịt.
Thời gian nuôi và thu hoạch phụ thuộc vào điều kiện quản lý:
– Ao đất quản lý tốt: khoảng 6 tháng, sá sùng đạt 10–12 cm, trọng lượng 7–11 g/con
– Bãi triều tự nhiên: 10–12 tháng, cỡ thu hoạch tương tự
Sá sùng khô, một loại đặc sản đắt giá.
Trước khi thu hoạch, cần tháo cạn nước, quan sát dấu vết đường hầm trên bề mặt cát và dùng tay hoặc dụng cụ đào nhẹ để bắt, tránh làm đứt gãy cơ thể. Sá sùng sau khi thu hoạch phải được rửa sạch cát và có thể bảo quản lạnh hoặc phơi, sấy khô để tiêu thụ.
Nuôi sá sùng là hướng đi mới nhiều triển vọng cho các vùng ven biển ở Quảng Ninh, Phú Yên, Khánh Hòa và một số địa phương khác. Kỹ thuật nuôi cơ bản đã được chuẩn hóa, tuy nhiên việc chủ động sản xuất giống nhân tạo và nghiên cứu thêm về dinh dưỡng sẽ quyết định khả năng mở rộng quy mô. Nếu giải quyết tốt những vấn đề này, sá sùng có thể trở thành đối tượng nuôi quan trọng, góp phần phát triển sinh kế bền vững và đa dạng hóa nguồn lợi thủy sản ven biển.
Nguồn: https://tepbac.com/tin-tuc/full/ky-thuat-nuoi-sa-sung-trong-ao-dat-va-bai-trieu-38449.html