Bệnh trắng đuôi trên tôm càng xanh là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Bệnh có thể lây nhiễm ở tất cả các giai đoạn tôm nuôi. Trong các trại ương giống khi tôm nhiễm bệnh, tỷ lệ chết lên tới 100%.
Biểu hiện tôm bị bệnh trắng đuôi
1. Tác nhân gây bệnh
Bệnh trắng đuôi (WTD) hay bệnh trắng cơ thịt (WMDĐ) được định nghĩa là bệnh do virus, do Macrobrachium rosenbergii nodavirus (MrNV) và có liên quan đến virus siêu nhỏ (XSV). Chúng gây ra dạng trắng sữa trong ấu trùng/hậu ấu trùng, thiếu trùng giai đoạn đầu và gây ra các tỷ lệ tử vong lớn trong tôm càng nước ngọt M.rosenbergii.
Hai virus Macrobrachium rosenbergii nodavirus (MrNV) và virus siêu nhỏ (XSV) đã được tìm thấy có liên quan đến bệnh này. Virus gây bệnh Macrobrachium rosenbergii nodavirus (MrNV) đã được xác định bằng phương pháp RT – PCR trong phòng thì nghiệm của TS Bonami.
2. Triệu chứng
Các dấu hiệu lâm sàng của bệnh bao gồm: lờ đờ, giảm ăn, phần cơ bụng chuyển sang mờ đục ở giai đoạn ấu trùng và ở tôm thương phẩm. Phần đục này dần lan rộng ra toàn thân và dẫn đến hoại tử phần đuôi khi tôm bị bệnh nặng. Đã có những trường hợp tôm bị bệnh nặng khi quan sát cho thấy hoàn toàn mất hẳn phần đuôi. Sự xuất hiện màu trắng đục ở phần đuôi là dấu hiệu lâm sàng nổi bật, do đó bệnh được đặt tên là bệnh trắng đuôi. Tỷ lệ chết là 100% sau 2 – 3 ngày kể từ ngày phát hiện các dấu hiệu lâm sàng.
Phần đầu ngực gia tăng kích hước lớn gấp đôi so với kích thước ban đầu. Dấu hiệu này đã được quan sát thấy ở tất cả tôm đã cảm nhiễm; bao gồm cả tôm còn sống lẫn tôm đã chết. Dấu hiệu lâm sàng này cũng tương tự như bệnh Branchiostegite blister (BBD) hoặc “hội chứng sưng đầu”. Khi mở giáp đầu ngực, có 2 bóng nước chứa đầy chất lỏng trên gan tụy và ở 2 bên. Trong các trại ương giống khi tôm nhiễm bệnh tỷ lệ chết lên tới 100%.
3. Chẩn đoán
a. Chẩn đoán bệnh bằng mô bệnh học: Các nhà khoa học đã tiến hành quan sát mô cơ, mô nội tặng của các con tôm bị đuôi trắng, kết quả cho thấy hoại tử đa ổ và xơ hóa cơ xương. Ngoài ra, basophilic và thể vùi đã được tìm thấy trong cơ vân, cơ quan bạch huyết và các mô liên kết. Tuy nhiên, mô bệnh học không phải là phương pháp hiệu quả trong việc xác định nguyên nhân gây bệnh.
b. Chẩn đoán bệnh bằng PCR: Trên thực tế, có rất nhiều nguyên nhân khiến tôm bị đục thân, trắng đuôi như do sự suy giảm chất lượng môi trường nước, sốc môi trường (đột ngột giảm nhiệt độ hoặc độ mặn) quá trình vận chuyển hoặc sang ao, Vibrio hay do virus (IMNV, PvNV, MrNV). Do đó, để xác định chính xác tôm bị trắng đuôi do PvNV hay MrNV cần tiến hành các phương pháp chẩn đoán PCR.
3. Phòng bệnh
– Hiện nay vẫn chưa có biện pháp điều trị bệnh. Không có nghiên cứu nào được tiến hành trong kiểm soát và phòng ngừa WTD. Tuy nhiên, các biện pháp phòng ngừa thích hợp như theo dõi đàn giống và hậu ấu trùng, các thực hành quản lý tốt có thể giúp ngăn ngừa WTD trong các hệ thống chăn nuôi. Do vòng đời của M.rosenbergii là hoàn toàn đặt dưới các điều kiện được kiểm soát, đàn giống sạch bệnh (SPF) và hậu ấu trùng sạch bệnh có thể tạo ra được bằng cách theo dõi với các phương pháp chẩn đoán như áp dụng phản ứng chuỗi phân tử sử dụng enzyme giải mã đảo ngược và xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết enzyme.
– Người nuôi cần áp dụng nghiêm các biện pháp phòng bệnh trong suốt quá trình nuôi. Thường xuyên kiểm tra đuôi trắng cho tôm bố mẹ trước khi cho sinh sản.
– Áp dụng biện pháp phòng bệnh tổng hợp: Lựa chọn nguồn tôm bố mẹ sạch bệnh; Xử lý, vệ sinh, diệt khuẩn ao nuôi trước mỗi vụ nuôi; Đảm bảo nguồn nước sạch cấp cho ao; Thường xuyên kiểm tra, quản lý chặt chẽ môi trường nước, tránh cho ăn dư thừa; Bổ sung vitamin và khoáng chất cho tôm nuôi để tăng cường sức đề kháng; Quản lý tốt sức khỏe tôm, đặc biệt là sau cơn mưa.
Cục Thủy sản
Nguồn: Trung tâm Khuyến nông Quốc gia