Sáng ngày 15/06/2025, Nhóm NCM Bệnh Thủy sản – Khoa Thủy sản tổ chức buổi seminar khoa học liên quan đến hiện trạng môi trường nuôi trồng thủy sản và các biện pháp quản lý. Buổi seminar do PGS.TS. Trương Đình Hoài là chủ tọa với sự tham gia của các cán bộ, giảng viên, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên trong Khoa Thủy sản cùng các khách mời đến từ doanh nghiệp đối tác. Các thành viên nhóm NCM Bệnh Thủy sản có những trao đổi với nội dung như sau:
- “Ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản tại Hà Nội”, PGS.TS. Kim Văn Vạn
- “Ảnh hưởng của độ mặn đến sinh trưởng và phát triển của cá két panda Amatitlania nigrofasciata Günther, 1867 trong môi trường nước bioflocs”, TS. Đoàn Thanh Loan
- “Tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn khi nuôi tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) 2 giai đoạn trong ao lót bạt tại Nghệ An”, TS. Đoàn Thị Nhinh

Quản lý môi trường trong nuôi thủy sản giữ vai trò quyết định đến sức khỏe và tốc độ sinh trưởng của vật nuôi. Một môi trường ổn định về pH, kiềm, oxy, nhiệt độ và chất hữu cơ giúp hạn chế stress, giảm nguy cơ bùng phát bệnh và tạo điều kiện cho hệ vi sinh có lợi phát triển. Khi các chỉ tiêu được kiểm soát chặt chẽ, tôm cá tiêu hóa tốt, ăn mạnh và đạt năng suất cao. Ngược lại, môi trường biến động dễ gây sốc, phát sinh khí độc và mầm bệnh. Vì vậy, quản lý môi trường là nền tảng để nuôi hiệu quả, an toàn và bền vững.
PGS.TS. Kim Văn Vạn mở đầu buổi seminar với tổng quan về Ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản tại Hà Nội. Trước hết, chủ trương và cơ chế chính sách của thành phố Hà Nội đang tập trung vào các giải pháp thay thế hóa chất và kháng sinh trong nông nghiệp nói chung và NTTS nói riêng. Trong những năm gần đây, người dân trên địa bàn cũng đã chuyển đổi, thích nghi với xu hướng này và đạt được những hiệu quả nhất định. Một số khảo sát đã cho thấy tình hình tồn dư kháng sinh và trong môi trường nuôi và vi khuẩn kháng thuốc đã giảm xuống tại vùng nuôi trọng điểm khu vực Ứng Hòa, Phú Xuyên và Mỹ Đức, tuy nhiên còn phải tiếp tục phát huy và mở rộng trong thời gian tới.



Tiếp đến TS. Đoàn Thanh Loan có những chia sẻ về công nghệ Biofloc và quản lý môi trường trong nuôi cá cảnh. Đối tượng chính của nghiên cứu là cá Két Panda Amatitlania nigrofasciata nuôi trong môi trường nước Bioflocs. Thí nghiệm một nhân tố gồm 3 nghiệm thức, có lặp lại 3 lần, với 8 tuần nuôi thử nghiệm, được bố trí ngẫu nhiên theo 3 độ mặn khác nhau (0‰, 5‰ và 10‰) với mật độ thả là 150 cá/m3 cỡ 0,44±0,14 g/con. Kết quả cho thấy độ mặn có ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cá trong môi trường nước bioflocs. Cụ thể là cá tăng trọng cao nhất ở nghiệm thức 10‰ đạt 5,58±1,36 g/con với FCR là 1,01±0,25 và tỷ lệ sống đạt 88,89±1,47 % (One-Way ANOVA; Post Hoc Multiple Comparisons; Tukey HSD; p = 0,041). Đặc biệt là sắc tố trên cơ thể cá đậm màu với những sọc panda điển hình, vây phát triển cân đối, đẹp, không bị xây xước do hành vi cắn rỉa của cá trong đàn, hình dáng cơ thể đa dạng tròn và dẹp, không có cá bị những biểu hiện bệnh điển hình thường xảy ra khi nuôi ở độ mặn cao hơn. Hơn nữa, ước tính hiệu quả kinh tế trong sản xuất đạt cao nhất ở độ mặn 10‰ tính cho 30 con cá giống nuôi đến 8 tuần là 332,384 Đồng. Nuôi cá Két Panda trong môi trường nước bioflocs có độ mặn 10‰ giúp tiết kiệm tài nguyên, chi phí, và hạn chế dịch bệnh nhằm hướng đến phát triển nghề cá cảnh bền vững và phát triển nuôi thủy sản có trách nhiệm.
Nội dung trình bày thứ 3 là kết quả nuôi và kiểm soát môi trường tôm thẻ chân trắng tại trang trại ở Nghệ An. Nghiên cứu nhằm đánh giá biến động một số yếu tố môi trường, tăng trưởng, tỷ lệ sống, hiệu quả sử dụng thức ăn và sự xuất hiện bệnh khi nuôi tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) hai giai đoạn trong hệ thống ao bạt tại Nghệ An. Đối tượng nghiên cứu là tôm giai đoạn 0–77 ngày tuổi, nuôi trong 1 ao gièo (33 ngày) và 3 ao thương phẩm (1.000 m²/ao; khoảng 38–39 ngày). Các yếu tố môi trường (nhiệt độ, pH, độ mặn, độ kiềm, DO) được theo dõi hằng ngày, trong khi tăng trưởng, tỷ lệ sống và hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) được xác định ở đầu và cuối mỗi giai đoạn nuôi. Kết quả cho thấy trong suốt vụ nuôi, nhiệt độ nước dao động 25–33°C, pH 7–8,5, DO 4,5–8 mg/L, độ kiềm 100–150 mg CaCO₃/L và độ mặn 15–24‰, nhìn chung nằm trong khoảng thích hợp cho nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh. Ở ao gièo, tôm tăng từ 0,002 lên 1,67 g/con sau 33 ngày, tốc độ tăng trưởng tuyệt đối 0,05 g/con/ngày, tăng trưởng tương đối 20,3%/ngày, tỷ lệ sống 83% và FCR 1,04. Giai đoạn thương phẩm, tôm tăng từ 2 lên trung bình 44,57 g/con sau khoảng 38 ngày, tốc độ tăng trưởng tuyệt đối 1,12 g/con/ngày, tăng trưởng tương đối 8,16%/ngày, tỷ lệ sống 89% và FCR trung bình 1,31. Trong quá trình nuôi có ghi nhận bệnh TPD và EHP, được kiểm soát bằng điều chỉnh lượng cho ăn, quản lý môi trường và bổ sung vitamin, men tiêu hóa, khoáng. Kết quả cho thấy mô hình nuôi hai giai đoạn trong ao lót bạt tại Nghệ An cho hiệu quả tăng trưởng, tỷ lệ sống và sử dụng thức ăn tương đối cao khi được quản lý tốt.
Phiên thảo luận diễn ra sôi nổi trong hơn 1 giờ liên quan chủ yếu đến các hướng ứng dụng chuyển đổi số trong thủy sản. Buổi chia sẻ kết thúc vào 11h cùng ngày.
Nhóm NCM Bệnh Thủy sản


English