• Home /
  • Tin tức
  • / Nhìn lại xuất khẩu thủy sản 10 tháng đạt 9,5 tỷ USD, tôm hùm và cá rô phi là điểm sáng

Seminar chuyên gia “Phân tích nhanh thành phần và mật độ tảo trong môi trường nước nuôi trồng thủy sảnSeminar chuyên gia “

Nuôi trồng thủy sản (NTTS) của Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức lớn như biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn, ô nhiễm môi trường, chi phí đầu vào tăng cao và dịch bệnh ngày càng phức tạp. Bên cạnh đó, yêu cầu khắt khe từ các thị trường xuất khẩu đòi hỏi sản phẩm thủy sản phải đảm bảo chất lượng cao, an toàn sinh học và thân thiện môi trường.

Trong bối cảnh đó, việc ứng dụng các giải pháp khoa học kỹ thuật tiên tiến không chỉ đóng vai trò quan trọng trong sản xuất mà còn hết sức cần thiết trong công tác đào tạo và nghiên cứu tại các cơ sở giáo dục. Việc giúp sinh viên tiếp cận sớm với các công nghệ hiện đại ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường sẽ trang bị cho các em kiến thức thực tiễn, kỹ năng sử dụng thiết bị khoa học, đồng thời nâng cao khả năng tư duy, phân tích và xử lý tình huống thực tế khi tham gia vào sản xuất và quản lý sau này.

Tảo đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái ao nuôi, vừa là nguồn cung cấp oxy, vừa là thức ăn tự nhiên cho nhiều loài. Tuy nhiên, khi phát triển quá mức hoặc xuất hiện các chủng tảo độc, chúng có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng như thiếu oxy, biến động pH, tiết độc tố, gây chết hàng loạt tôm cá và làm ô nhiễm môi trường nước. Việc định lượng, giám sát và kiểm soát tảo kịp thời, chính xác không chỉ giúp duy trì hệ sinh thái ổn định mà còn đóng vai trò phòng ngừa dịch bệnh hiệu quả.

Nhằm nâng cao nhận thức và chia sẻ các kiến thức, kinh nghiệm về vấn đề này, sáng ngày 22/08/2025, nhóm nghiên cứu mạnh Bệnh Thủy Sản đã phối hợp cùng các chuyên gia từ Công ty TNHH Khoa học và Kỹ thuật REECO và Công ty BBE Moldaenke, GmbH, CHLB Đức tổ chức seminar với chủ đề “Phân tích nhanh thành phần và mật độ tảo trong môi trường nước nuôi trồng thủy sản”. Buổi chia sẻ thu hút sự tham gia của giảng viên, sinh viên và chuyên gia trong lĩnh vực thủy sản.

Babak Sherkatiazin mở đầu bằng việc viện dẫn vai trò then chốt của quản lý chất lượng nước đóng trong nuôi trồng thủy sản. Việc giám sát và phản ứng kịp thời nhằm hạn chế, ngăn chặn các yếu tố bất lợi, đồng thời tăng cường các yếu tố có lợi trong nguồn nước phục vụ nghiên cứu, thực hành và sản xuất chính là giải pháp nền tảng để phát triển thủy sản bền vững.

Chất lượng nước là yếu tố quan trọng hàng đầu, do đó việc quan trắc, giám sát và phản ứng kịp thời: hạn chế, ngăn chặn các yếu tố bất lợi, tăng cường các yếu tố có lợi trong nguồn nước cấp cho NTTS nên là giải pháp căn nguyên. Bên cạnh việc định lượng tảo, công tác quan trắc phát hiện và cảnh báo kịp thời các độc chất (kim loại năng, thuốc trừ sâu, chất độc thần kinh, chất diệt cỏ, chất độc gan, ức chế hô hấp, hydrocarbons, chlorinated hydrocarbons, PCBs,…) hiện diện trong nước cấp cho hệ thống ao nuôi cũng hết sức cần thiết để đảm bảo một hệ sinh thái có lợi và ổn định cho NTTS. Với khoảng 2 triệu độc chất và hàng ngàn chất độc mới được tạo ra và phát thải vào môi trường mỗi năm, phương pháp quan trắc độc chất bằng chỉ thị sinh học là lựa chọn tốt nhất nhằm giúp các cơ quan quản lý, người nuôi trồng phát hiện và phản ứng kịp thời với các sự cố nguồn nước bị nhiễm độc.

Nội dung thảo luận tập trung vào ánh giá độc chất bằng chỉ thị sinh học (biomonitors), phân tích các kiểu hành vi phức tạp của các sinh vật thủy sinh như cá, rận nước (daphnia) hoặc phân tích sự ức chế hoạt động tổng hợp quang của tảo. Bên cạnh đó, chuyên gia Phạm Văn Hinh đến từ Công ty TNHH Khoa học và Kỹ thuật REECO cũng chia sẻ chuyên sâu về nguyên lý hoạt động, hướng dẫn chi tiết cách sử dụng, bảo trì, hiệu chuẩn, cũng như giải đáp thắc mắc trong quá trình vận hành thực tế thiết bị AlgaeLabAnalyser (ALA) đang được đặt tại Phòng thực hành bộ môn MT&BTS. Đồng thời, ứng dụng của các thiết bị phân tích môi trường và độc chất hiện có tại Khoa cũng được đưa vào thảo luận.

Buổi seminar khép lại với các định hướng hợp tác cụ thể cho thời gian tới giữa đôi bên, đặc biệt trong công tác đào và nghiên cứu.

   Nhóm NCM Bệnh Thủy sản