Gần đây, kinh tế biển được chú trọng phát triển để khai thác một tiềm năng lớn của đât nước. Kinh tế biển là toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển, trong đó nuôi trồng và khai thác hải sản được xác định là động lực phát triển với thực trạng, định hướng như sau.

Toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển
Các nhà khoa học đã thống nhất: Kinh tế biển bao gồm toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển. Đó là, đánh bắt và nuôi trồng thủy – hải sản; Kinh tế hàng hải (vận tải biển, khai thác cảng và dịch vụ hàng hải); Khai thác dầu khí ngoài khơi; Khai thác khoáng sản; Năng lượng tái tạo; Du lịch biển; Kinh tế đảo và Làm muối.
Vấn đề phát triển bền vững nhằm đạt được tăng trưởng kinh tế đồng thời giảm các tác động tiêu cực đến môi trường đã được đặt ra. Đáng chú ý, Nghị quyết số 139/2024/QH15 ngày 28/6/2024 của Quốc hội về Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Và ngày 27/2/2025, Chính phủ có Nghị quyết số 37/NQ-CP ban hành Kế hoạch thực hiện Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021 – 2030.
Quan điểm bao trùm: Sử dụng tài nguyên một cách có trách nhiệm, chuyển đổi sang nền kinh tế sử dụng tài nguyên hiệu quả, ít carbon. Duy trì tài sản tài nguyên thiên nhiên hướng tới bảo tồn và phục hồi hệ sinh thái, đa dạng sinh học và vốn tự nhiên.
Thực trạng động lực phát triển kinh tế biển
Tiến sỹ Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư, cho rằng, nuôi trồng và khai thác hải sản là động lực phát triển kinh tế biển.
Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km; diện tích mặt biển 1 triệu km2 và hơn 4000 đảo, quần đảo với hơn 12.000 loài sinh vật biển. Thủy sản biển cùng với lợ và ngọt, năm 2024 đạt sản lượng trên 9,6 triệu tấn; trong đó, nuôi trồng 5,8 triệu tấn (hơn 60%) thuộc TOP 4 quốc gia trên thế giới; xuất khẩu 10,07 tỷ USD đến hơn 170 quốc gia và vùng ãnh thổ, thuộc TOP 3 thế giới. Thủy sản chiếm từ 4-5% GDP cả nước và khoảng 25% GDP của ngành nông nghiệp, tạo việc làm cho khoảng 4 triệu lao động.
Nuôi trồng thủy sản trên biển những năm gần đây phát triển mạnh và từng bước ứng dụng công nghệ cao ở các tỉnh như Khánh Hòa, Lâm Đồng, An Giang, Quảng Ninh. Đối tượng nuôi chính là cá chẽm, bớp, chim vây vàng và tôm hùm, nhuyễn thể (ngao, hàu), đặc biệt rong biển. Tuy nhiên, đang gặp nhiều khó khăn khi hạ tầng vùng nuôi còn yếu, thiếu quy hoạch bền vững, nguy cơ rủi ro về ô nhiễm môi trường nước ven biển, đầu tư lớn.
Về khai thác hải sản được tổ chức và quản lý theo vùng: Bờ, lộng và khơi. Tính đến ngày 20/5/2025, số lượng tàu cá cả nước đã đăng ký, được cập nhật đầy đủ trên cơ sở dữ liệu nghề cá quốc gia (VNFishbase) là 82.175 chiếc. Tuy nhiên, nguồn lợi hải sản đang suy giảm, đặc biệt vùng biển ven bờ. Từ năm 2027 đến nay, EU đã cảnh báo “thẻ vàng” IUU về khai thác vi phạm biển nước ngoài; quản lý, giám sát đội tàu; truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Mô hình nuôi cá bớp bằng lồng HDPE ở vùng biển hở ở tỉnh Khánh Hòa mang lại hiệu quả vượt trội. Ảnh: KS.
Chiến lược phát triển thủy sản trên biển
Ngày 4/10/2021, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 1664/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đây là định hướng lớn, góp phần phát triển ngành nuôi biển chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong cơ cấu phát triển nuôi trồng thủy sản.
Ngày 19/9/2022, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 1090/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc gia phát triển khai thác thủy sản hiệu quả, bền vững giai đoạn 2022 – 2025, định hướng 2030.
Ngày 10/3/2023, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 208/QĐ-TTg phê duyệt Đề án chuyển đổi một số nghề khai thác hải sản ảnh hưởng đến nguồn lợi và môi trường sinh thái.
Mục tiêu chung đến năm 2030: Phát triển thủy sản thành ngành kinh tế quan trọng của quốc gia, sản xuất hàng hóa lớn gắn với công nghiệp hóa – hiện đại hóa; có thương hiệu uy tín, khả năng cạnh tranh và hội nhập quốc tế; góp phần giữ vững độc lập, chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Tầm nhìn đến năm 2045: Thủy sản là ngành kinh tế thương mại hiện đại, bền vững, có trình độ quản lý, khoa học công nghệ tiên tiến; là trung tâm chế biến thủy sản sâu, thuộc nhóm ba nước sản xuất và xuất khẩu thủy sản dẫn đầu thế giới; giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu các ngành kinh tế nông nghiệp và kinh tế biển.
Hướng thủy sản trở thành ngành kinh tế thương mại hiện đại, bền vững, là trung tâm chế biến thủy sản sâu, thuộc nhóm ba nước sản xuất và xuất khẩu thủy sản dẫn đầu thế giới. (Ảnh:St)
Định hướng và giải pháp thời gian tới
Nuôi trồng thủy sản biển
Phát triển nuôi các đối tượng chủ lực và các loài có giá trị kinh tế gắn bảo vệ môi trường sinh thái. Sản xuất giống chất lượng cao, ưu tiên phát triển giống các đối tượng chủ lực, các loài mới có tiềm năng. Phát triển nuôi trồng vi tảo, rong biển phục vụ nhu cầu thực phẩm và cung cấp nguyên liệu cho các ngành kinh tế khác (mỹ – dược phẩm…).
Phát triển nuôi biển thành một lĩnh vực sản xuất hàng hoá, khuyến khích quy mô công nghiệp ở các vùng biển mở; Ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến, thân thiện với môi trường; các mô hình nuôi hữu cơ, sinh thái, tiêu chuẩn GAP.
Ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số trong quản lý, sản xuất giống, vật tư thuỷ sản, phòng trừ dịch bệnh.
Về khai thác
Tập trung phát triển khai thác hải sản vùng khơi, giảm dần cường lực khai thác đảm bảo phù hợp với trữ lượng nguồn lợi. Tổ chức lại hoạt động khai thác hải sản vùng lộng, ven bờ, phát triển nuôi trồng gắn với du lịch sinh thái, nghề cá giải trí.
Tuân thủ các quy tắc ứng xử nghề cá có trách nhiệm, chống khai thác IUU. Giảm thiểu, tiến tới chấm dứt các nghề khai thác có tính hủy diệt nguồn lợi. Áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, cơ giới hoá, hiện đại hoá tàu cá; giảm tổn thất sau thu hoạch đến năm 2030 dưới 10%.
Hiện đại hoá công tác quản lý nghề cá trên biển nhằm chủ động cảnh báo, kịp thời ứng phó với các sự cố, rủi ro thiên tại trên biển.