Nuôi biển: Ngành kinh tế lớn vươn khơi với thách thức lớn

Vừa qua, Tép Bạc thông tin về tiềm năng và lợi thế nuôi biển của Việt Nam có thể xây dựng thành một ngành kinh tế lớn. Tuy nhiên, ngành kinh tế lớn vươn khơi của nước ta cũng đối diện thách thức lớn khi có nhiều cơn bão và áp suất nhiệt đới trên mặt biển hàng năm cùng dòng chảy ngầm phức tạp phía dưới.

Nuôi trồng thủy sản lồng bè công nghệ cao trên biển
Nuôi trồng thủy sản lồng bè công nghệ cao trên biển – hướng đi bền vững cho ngành thủy sản Việt Nam. Ảnh: Thủy sản Việt Nam

Địa phương tiên phong vươn khơi: Khó khăn trước mắt

Trong chiến lược phát triển, vùng biển Nam Trung Bộ được xác định nuôi tôm hùm, cá và tỉnh Khánh Hòa đi tiên phong nuôi xa bờ. Hơn 2 năm nay, có 70 hộ dân đã vươn khơi với mô hình thí điểm nuôi biển công nghệ cao do Tập đoàn Vingroup tài trợ. 

Vùng biển nuôi thí điểm cách bờ gần chục hải lý, nước trong xanh, quy hoạch đã được phê duyệt. Các hộ dân nuôi cá chim, bớp, mú và tôm hùm; trước đây sử dụng lồng bằng bè gỗ, nay chuyển sang lồng HDPE tròn và vuông. Mỗi hộ được hỗ trợ từ 50 – 70% chi phí (tùy theo khu vực nuôi) lắp đặt 2 ô lồng tròn hoặc 1 cụm lồng vuông. Bên cạnh, được tài trợ hệ thống camera giám sát, hệ thống định vị trên biển và giám sát từ xa 24/7 trên thiết bị điện tử. Các hộ dân đã thả nuôi hàng trăm nghìn con cá, tôm.

Ban đầu, năm 2023 – 2024, có 10 hộ tham gia được hỗ trợ 16 lồng tròn HDPE (thể tích 1 lồng 800m3) để nuôi cá bớp và 12 ô lồng vuông HDPE (thể tích 1 lồng 24m3, nuôi 2 tầng) để nuôi tôm hùm. Kết quả, lợi nhuận nuôi cá cao gấp 1,72 lần so với nuôi bằng lồng bè gỗ, và nuôi tôm hùm cao gấp 1,12 lần. Sang năm 2024 – 2025 phát triển lên 70 hộ, mỗi hộ được hỗ trợ lắp đặt 2 ô lồng tròn nuôi cá hoặc 1 cụm lồng vuông nuôi tôm hùm; tập trung ở vùng biển Hòn Nội và Đầm Bấy, đều đạt hiệu quả cao.

Tuy nhiên, các hộ cũng cho biết, bước đầu vươn khơi gặp nhiều khó khăn. Đầu tư lớn (bình quân 2 lồng tròn HDPE nuôi cá tốn gần 600 triệu đồng) nên chưa làm được nhà nổi cho người ở. Người nuôi cá phải sáng đi tối về hoặc tạm bợ trên tàu hậu cần neo cạnh lồng. Đi từ bờ ra lồng nuôi còn xa, chẳng hạn ra vùng biển Hòn Nội phải đi từ cảng Ba Ngòi mất hơn 3 giờ; nếu được phép lập bến tàu tại khu vực Bãi Tây của xã Cam Lâm để đi ra thì chỉ dưới 1 giờ. Có hệ thống bến cảng hợp lý còn tiết kiệm được nhiều chi phí, kể cả việc đưa cá thu hoach ngoài biển vào bờ, sẽ đạt hiệu quả kinh tế cao hơn để phát triển bền vững.

Mô hình nuôi cá bớp bằng lồng tròn HDPEMô hình nuôi cá bớp bằng lồng tròn HDPE trên vịnh Vân Phong, huyện Vạn Ninh (Khánh Hòa). Ảnh: Tùng Đinh.

Dòng chảy ngầm phức tạp: Thách thức lớn lâu dài

Nhiều nghiên cứu cho biết, vùng biển xa bờ của Việt Nam có những dòng chảy ngầm phức tạp. Dòng chảy ngầm là dòng nước dưới mặt biển ở độ sâu từ vài mét đến hàng trăm mét, trong vùng biển xa bờ Việt Nam các dòng chảy này lại thường không cùng hướng và tốc độ với dòng chảy bề mặt. Khi có bão, các dòng chảy ngầm càng thách thức lớn cho lồng nuôi biển.

Vùng biển xa bờ chủ yếu nằm ngoài chục hải lý tính từ bờ biển, ở nước ta chịu ảnh hưởng mạnh của gió mùa Đông Bắc và Tây Nam. Chế độ gió mùa tạo ra dòng chảy bề mặt, nhiều cơn mưa bão cùng áp thấp nhiệt đới; và còn ảnh hưởng lớn đến dòng chảy ngầm, khiến vận tốc thay đổi liên tục, như ở Vịnh Bắc Bộ, dòng chảy ngầm chuyển hướng mạnh theo mùa với tốc độ 0,2-0,5 m/s, có thể tăng lên 1 m/s. Địa hình đáy biển xa bờ Việt Nam sâu từ 200 m trở lên và có nhiều bãi ngầm, núi ngầm, rãnh sâu, làm phức tạp thêm dòng chảy ngầm, tạo ra các xoáy nước hoặc chảy rối. Biển Đông còn chịu ảnh hưởng các dòng hải lưu lớn nên dòng chảy ngầm càng phức tạp.

Thông ttin từ Cục Thủy sản và Kiểm ngư, nhiều nước có sản lượng nuôi biển lớn như Na Uy ở vùng biển Bắc Đại Tây Dương chỉ chịu ảnh hưởng của một dòng hải lưu ấm với tốc độ ổn định. Hoặc Hy Lạp nuôi biển ở Địa Trung Hải là vùng biển kín với dòng chảy ngầm ổn định.

So sánh với Na Uy và Hy Lạp, nuôi biển ở Việt Nam phải đối mặt nhiều thách thức lớn và phức tạp do dòng chảy ngầm, bão tố. Dòng chảy ngầm ở biển Việt Nam với tốc độ có thể đạt tới 1 m/s trong mùa bão, gây áp lực lớn lên lồng nuôi, đặc biệt khi lồng được neo cố định ở đáy biển. Khi có bão, dòng chảy ngầm rối loạn kết hợp với sóng bề mặt cao, tác động vô cùng lớn lên lồng nuôi. Dòng chảy ngầm còn mang theo trầm tích, rác thải làm giảm chất lượng nước.

Một giải pháp phổ biến để bảo vệ lồng khi gặp bão là dìm lồng xuống biển sâu từ 10-20 m, để tránh sóng bề mặt. Ở Việt Nam nếu làm vậy thì lại bị dòng chảy ngầm tác động mạnh. Nghiên cứu của Viện Hải dương học Nha Trang cho hay, ở độ sâu 15-30 m, dòng chảy ngầm có thể tạo ra lực tác động lên tới 1.000 N/m², dễ làm hư hỏng lồng nuôi.

Lồng HDPE khớp nối và kết cấu với ốngLồng HDPE khớp nối và kết cấu ống giúp chịu lực, chống xoắn trên biển. Ảnh: Sưu tầm

Cần giải pháp kỹ thuật và quản lý đặc thù Việt Nam

Để giảm thiệt hại do dòng chảy ngầm và bão, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III khuyến nghị, Việt Nam cần phát triển các lồng nuôi được thiết kế riêng. Sử dụng vật liệu siêu bền như composite hoặc hệ thống neo động có thể điều chỉnh theo dòng chảy, Việc đầu tư vào công nghệ giám sát dòng chảy ngầm và dự báo bão, sử dụng cảm biến dưới nước và vệ tinh để phát hiện sớm sự thay đổi bất thường, thực hiện các biện pháp như dìm lồng hoặc gia cố trước bão. Đồng thời, đào tạo ngư dân vận hành và bảo trì lồng nuôi, cách ứng phó với bão và dòng chảy ngầm. Đó là những yếu tố căn bản đảm bảo an toàn hạ tầng nuôi biển.

Các cường quốc nuôi biển trên thế giới đều phát triển công nghệ phù hợp với điều kiện riêng. Chẳng hạn Chile và Nhật Bản nuôi biển xa bờ phát triển cho thấy điều này. Chile nuôi cá hồi ở vùng biển Thái Bình Dương có các dòng chảy ngầm mạnh nhưng ít bị ảnh hưởng bão nhiệt đới, đã sử dụng lồng công nghệ cao phù hợp để giảm rủi ro. Nhật Bản nuôi ở vùng biển có dòng chảy ngầm mạnh, đã sử dụng các lồng nuôi chịu lực cao, trang bị hệ thống giám sát dòng chảy ngầm tự động. Cả hai quốc gia chú trọng công nghệ giám sát và dự báo, giúp giảm thiệt hại từ dòng chảy ngầm và bão. 

Vùng biển xa bờ Việt Nam có dòng chảy ngầm phức tạp và tần suất bão cao là những thách thức lớn, càng đòi hỏi các giải pháp kỹ thuật và quản lý đặc thù hơn. Việc học hỏi kinh nghiệm trên thế giới để có lồng nuôi thiết kế riêng của Việt Nam là rất cần thiết. Khi nghiên cứu dòng chảy ngầm đầy đủ, tối ưu hóa thiết kế lồng nuôi, đầu tư vào công nghệ giám sát và nâng cao năng lực cho ngư dân sẽ đảm bảo phát triển bền vững ngành nuôi biển.

Nguồn: https://tepbac.com/tin-tuc/full/nuoi-bien-nganh-kinh-te-lon-vuon-khoi-voi-thach-thuc-lon-38128.html